Hiện nay đang diễn ra một tình trạng đáng báo động đó là tỉ lệ các cặp vợ chồng bị vô sinh hiếm muộn có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình và còn ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng dân số của xã hội. Hiện nay, trong số các phương pháp điều trị vô sinh thì phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung IUI và thụ tinh trong ống nghiệm IVF được cho là phổ biến nhất.
1. Một số nguyên nhân dẫn đến vô sinh ở nam và nữ
Tình trạng quan hệ tình
dục thường xuyên trong một năm, không sử dụng biện pháp tránh thai nào nhưng vẫn
không thể có thai được gọi là vô sinh. Vô sinh được chia thành vô sinh thứ phát
và vô sinh nguyên phát. Vô sinh có thể do những vấn đề ở người vợ, có thể do một
số vấn đề ở người chồng hoặc cũng có thể do cả hai vợ chồng, hoặc không rõ
nguyên nhân.
Có
nhiều nguyên nhân gây vô sinh, dưới đây là những nguyên nhân phổ biến nhất:
Vấn đề bệnh lý: Một số
căn bệnh có thể gây ra tình trạng vô sinh ở nữ như các bệnh về buồng trứng, vòi
trứng và tử cung, chẳng hạn như u nang buồng trứng, u xơ tử cung, lạc nội mạc tử
cung rối loạn kinh nguyệt,… Đối với nam giới, một số bệnh lý về tinh hoàn, tắc
nghẽn ống dẫn tinh, tinh trùng yếu, tình trùng ít, suy giảm chức năng sinh lý,…
chính là những nguyên nhân có thể dẫn tới vô sinh.
Vấn đề về tuổi tác: Tuổi
tác rất quan trọng và ảnh hưởng nhiều đến khả năng sinh sản ở cả nam giới và nữ
giới. Tuổi càng cao thì khả năng sinh sản sẽ càng giảm. Phụ nữ từ sau 35 tuổi
thì cơ hội mang thai trong mỗi kỳ kinh nguyệt chỉ còn 10%.
Thói quen sinh hoạt
không khoa học cũng ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng sinh sản ở cả hai giới. Chẳng
hạn những phụ nữ ăn uống và tập luyện không điều độ, đặc biệt là những phụ nữ
thừa cân, béo phì sẽ khó có thai hơn những phụ nữ có cân nặng vừa phải và có chế
độ ăn uống vận động khoa học hợp lý. Những nam giới có thói quen uống nhiều rượu
bia và hút thuốc lá thường xuyên cũng chính là nguyên nhân làm suy giảm khả
năng sinh sản.
2. Các phương pháp điều trị vô sinh phổ biến
Hiện nay, trong số các
phương pháp điều trị vô sinh thì hai phương pháp được sử dụng nhiều nhất đó là
IUI và IVF. Cụ thể như sau:
2.1. Phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung IUI
Phương pháp IUI chính
là bơm tinh trùng vào buồng tử cung. Đây là phương pháp có rất nhiều ưu điểm và
rất nhiều cặp vợ chồng đã thành công khi điều trị vô sinh bằng IUI.
Phương pháp này được áp
dụng với những cặp vợ chồng bị vô sinh mà nguyên nhân có thể do những vấn đề ở
người chồng, người vợ hoặc không có nguyên nhân. Hơn nữa, hai vợ chồng cần phải
tìm hiểu kỹ về IUI và hiểu rõ vấn đề sức khỏe của cả hai để từ đó đồng lòng đưa
ra quyết định có thực hiện hay không và cần phải chuẩn bị tinh thần như thế
nào. Từ đó mới có thể mong đợi vào kết quả điều trị tốt nhất.
Một
số trường hợp nên thực hiện IUI là:
+ Trường hợp người chồng
có số lượng tinh trùng yếu ở mức độ nhẹ đến trung bình.
+ Người vợ gặp phải một
số bất thường ở cổ tử cung hoặc gặp rối loạn về phóng noãn.
+ Một số cặp vợ chồng
được chẩn đoán là vô sinh nhưng chưa thể tìm rõ nguyên nhân cũng có thể áp dụng
phương pháp điều trị này.
Cách
thực hiện phương pháp IUI như sau
+ Bước đầu tiên là cả
hai vợ chồng đều phải thực hiện thăm khám để đánh giá chính xác nguyên nhân gây
vô sinh là gì và có phù hợp với kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung hay
không.
+ Khi đã nhận được lời
tư vấn của bác sĩ và đồng ý áp dụng phương pháp này, hai vợ chồng sẽ sắp xếp thời
gian để thực hiện chu kỳ kích trứng đối với người vợ. Còn đối với người chồng,
bác sĩ sẽ thực hiện chọn lọc tinh trùng khỏe mạnh nhất để bơm vào buồng tử cung
sau khi trứng được tiêm rụng.
+ Sau 14 ngày từ khi
bơm tinh trùng vào buồng tử cung, tiến hành kiểm tra xem có thai không. Trong
trường hợp có thai, thai phụ sẽ được hướng dẫn cách chăm sóc thai dưới sự tư vấn
của các bác sĩ chuyên khoa.
+ Tỷ lệ thành công của
phương pháp IUI phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chất lượng tinh trùng, chất lượng
trứng, tâm lý của người bệnh, kỹ thuật của bác sĩ,…
2.2. Phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm IVF
IVF là phương pháp điều
trị vô sinh hiện đại và được nhiều cặp vợ chồng áp dụng trong những năm gần
đây. Với phương pháp này, trứng và tinh trùng sẽ được gặp nhau và thụ tinh
trong ống nghiệm, cho đến khi phôi thai được hình thành. Sau đó bác sĩ sẽ dùng
thủ thuật để đưa phôi thai đã được nuôi trong ống nghiệm vào tử cung của người
phụ nữ. Sau đó phôi thai sẽ có thể làm tổ trong tử cung và phát triển tự nhiên.
Những
đối tượng có thể áp dụng phương pháp IVF là:
+ Những cặp vợ chồng đã
áp dụng phương pháp IUI hoặc các phương pháp điều trị vô sinh khác nhưng không
thành công.
+ Trường hợp phụ nữ bị
tắc cả hai bên vòi trứng.
+ Phụ nữ bị mắc phải một
số bệnh lý như lạc nội mạc tử cung,…
+ Nam giới gặp vấn đề về
tinh trùng như tinh trùng yếu và dị dạng.
Các
bước thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm sẽ diễn ra trong ít nhất là từ 4 đến 6
tuần:
+ Bước 1: Kiểm tra và
chẩn đoán chính xác về sức khỏe sinh sản của hai vợ chồng.
+ Bước 2: Kích thích sự
phát triển trứng và rụng trứng.
+ Bước 3: Thực hiện thủ
thuật lấy trứng và tinh trùng ra ngoài.
+ Bước 4: Thụ tinh
trong ống nghiệm.
2.3. Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn
Tiêm tinh trùng vào bào
tương noãn (ICSI) là phương pháp điều trị có hiệu quả nhất đối với những trường
hợp tinh trùng ít, yếu và dị dạng. Bằng cách tiêm trực tiếp tinh trùng từ nhiều
nguồn khác nhau (tinh dịch, mào tinh, mô tinh hoàn) vào noãn để tạo phôi. Sau
khi thụ tinh thành công, phôi sẽ được nuôi cấy đến ngày thứ 3 hoặc ngày thứ 5 rồi
chuyển vào buồng tử cung của người mẹ để làm tổ và phát triển.
Phương pháp này có ưu
điểm đặc biệt là chỉ cần một tinh trùng là đủ để có thể thụ tinh với noãn. Cho
dù chất lượng tinh trùng có bất thường, miễn là tinh trùng đó còn sống thì thụ
tinh có thể xảy ra. Nhờ đó đây là phương pháp được chỉ định trong những trường
hợp bất thường tinh trùng nặng, các trường hợp tinh trùng từ phẫu thuật trên những
bệnh nhân không tinh trùng, bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng noãn và
một số xét nghiệm chẩn đoán đặc biệt.
2.4. Trưởng thành trứng non
Kỹ thuật trưởng thành
trứng non trong ống nghiệm (IVM) là kỹ thuật nuôi cấy và trưởng thành các trứng
non ở giai đoạn túi mầm (GV) lấy được từ buồng trứng đến giai đoạn metaphase II
(M II). Phương pháp này và phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm về cơ bản khá
là giống nhau. Chỉ khác biệt ở chỗ thụ tinh trong ống nghiệm phải tiêm thuốc
kích thích trứng lớn lên rồi mới lấy trứng trưởng thành ra khỏi cơ thể để thực
hiện quy trình thụ tinh. Còn với kỹ thuật nuôi trứng non, không cần phải sử dụng
phác đồ kích thích buồng trứng thông thường. Do đó trưởng thành trứng non đặc
biệt hữu ích đối với những bệnh nhân mắc hội chứng buồng trứng đa nang.
Nguồn:
NamKhoa.net